NHÂN ĐIỆN : NĂNG LƯỢNG SINH HỌC(BIOENERGY)
I . CON NGƯỜI
Con người là một thực thể của Vũ Trụ. Nói một cách khác, con người là một tiểu Vũ Trụ.
Bất cứ một thể sống nào cũng bao gồm:
-Thân thể (nhìn thấy)
-Cơ thể năng lượng (không nhìn thấy)
Khả năng của con người rất lớn, nhưng chúng ta hiểu biết về mình chẳng bao nhiêu! Thực tế, con người có những khả năng kỳ diệu như sau:
-Thần giao cách cảm – Télépathy.
- Nhìn xuyên không và thời gian – Clairvoyance.
- Đọc được tư tưởng – Télédiagnostic.
- Hiệu ứng toàn lực và toàn thức – Strength & Omnisoience.
- Phẫu thuật tâm linh – Spiritual surgery.
- Chữa bệnh bằng xung năng lượng – Bioenergo therapy.
Tất cả đều có nguồn gốc từ năng lượng sinh học, gọi là “NHÂN ĐIỆN”.
Bằng chứng, cách đây 2.600 năm đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài ngồi thiền định mà đắc được lục thông:
- Thiên nhãn thông- Nhìn xa.
- Thiên nhĩ thông - Nghe xa.
- Tha tâm thông - Biết tư tưởng.
- Túc mệnh thông - Biết các đời trước.
- Thần túc thông – Đi như bay.
- Lậu tận thông – Không còn phiền não.
II. NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ LÀ GÌ?
Năng lượng vũ trụ là một loại thanh khí bao trùm khắp không gian.
Nó là một hơi nóng thiên nhiên nuôi sống tất cả: chúng sinh, muông thú và cây cỏ. Không có năng lượng này thì không có bất cứ vật gì còn tồn tại.
-Người Ấn Độ quan niệm nguồn năng lượng vũ trụ này là khí PRANA.
-Người Trung Quốc cũng biết thu ngoại khí, tức là năng lượng vũ trụ để luyện thành khí công.
-Nền y học Đông phương gọi là Tiên thiên khí – Hậu thiên khí.
-Các kinh Phật đều nói về Thiền Định, Luân Xa (LX) và Chân Hõa Tam Muội. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và Kinh A Di Đà nói rất rõ về sử dụng các Luân Xa (LX) và Thiền.
-Tổ Bồ Đề Đạt Ma (tổ thứ 1 của Trung Hoa) dùng phép thiền, lấy năng lượng vũ trụ để chữa bệnh.
Phật giáo Tây Tạng chấp nhận phép thiền YOGA (lấy năng lượng vũ trụ) để tạo ra : mắt thần, khinh thân và minh triết.
III. NĂNG LƯỢNG SINH HỌC LÀ GÌ?
- Năng lượng sinh học là một loại năng lượng trong cơ thể con người, ta gọi là
NHÂN ĐIỆN. Sỡ dĩ gọi là là nhân điện là để phân biệt với các loài muông thú và cây cỏ, chúng cũng có năng lượng Sinh học như ta.
- Nhân điện có được là nhờ cơ thể chúng ta thu nhận năng lượng vũ trụ qua các
hệ thống luân xa trong con người. Khi thu hút vào trong người, nó trở thành năng lượng sinh học, gọi là nhân điện. Nó hoàn toàn không phải như điện tim, điện não, điện cơ. Nhân điện ở từng cơ thể mạnh yếu khác nhau và tỏa ra ngoài một vùng ánh sáng bao quanh, ta gọi là hào quang mà mắt thường không nhìn thấy.
Các nhà sư Tây Tạng đã khổ luyện môn này để có thể nhìn vào hào quang mà biết được đối tượng khỏe yếu, và bị bệnh gì?
Chính năng lượng sinh học này giúp con người khai thác được những khả năng kỳ diệu của mình, như đã trình bày ở trên.
NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ ---------> Vào con người:
-Qua hệ thống luân xa
-Chuyển thành năng lượng
sinh học gọi là nhân điện
Nhân điện :
- Tạo và phát ra sóng não mang thông tin.
- Giúp cho đời sống được quân bình, khoẻ mạnh hay yếu.
- Nếu các luân xa được khai mở, năng lượng vũ trụ thu hút vào được nhiều,
làm cho có đủ lực để chữa bệnh cho người, bằng cách phát ra lực từ bàn tay gọi là”xung năng lượng” để trị liệu.
Xung năng lượng có đủ mạnh, đủ nhiều hay không là do khả năng của thầy chữa, còn tiếp nhận được bao nhiêu? Kết qủa ra sao? Là tùy thuộc vào khả năng tiếp thu của bệnh nhân. Cho nên, khi chữa bệnh, cả người chữa và người được chữa phải trong tư thế tĩnh tâm.
IV. LÀM SAO “XUNG NĂNG LƯỢNG” TRỊ ĐƯỢC BỆNH?
Khi cơ thể lâm bệnh, tức là màng tế bào, màng mô, hoặc cơ quan bị mất cân bằng hoạt động của điện áp.
Các “ion” kim loại có thể từ trong ra ngoài hoặc ngược lại, hoặc sắp xếp không đúng quy luật nào hết.
Những ‘’ion” này lại rất nhạy bén đối với năng lượng hoặc điện trường.
Muốn lập lại trật tự, cần phải dùng đến ngoại lực như: hóa chất, tác nhân, vật lý, hoặc năng lượng để cân bằng. Chính sự không cân bằng tạo ra các bệnh.
Phương pháp trị bệnh bằng nhân điện dựa vào nguyên tắc trên. Người có “nhân điện” tiến hành các thao tác lên các luân xa, huyệt, tạo xung năng lượng từ bàn tay mình, truyền vào cơ thể của bệnh nhân là người tiếp nhận và sử dụng năng lượng đó để cân bằng và lập lại trật tự.
Châm cứu hoăc day huyệt cũng đều có mục đích như trên, nhưng:
- Châm cứu, day huyệt kích thích cơ thể, để nó tự điều tiết. Nhưng vì cơ thể
đang lâm bệnh nên việc tự điều chỉnh thường khó khăn và có thể phải kéo dài.
- Dùng hóa chất cũng lập lại được sự cân bằng của các tế bào, nhưng lại sẽ sinh
ra những phản ứng phụ.
-Ngược lại, nhân điện trực tiếp cung cấp năng lượng cho cơ thể lâm bệnh dưới
dạng “XUNG”, giúp cơ thể tự điều chỉnh, phục hồi trong một thời gian ngắn mà không bị phản ứng phụ (side effect).
V. LUÂN XA LÀ GÌ?
Luân xa (chakras) là một loại huyệt trong con người. Khi hút năng lượng vũ trụ vào cơ thể để nuôi các tế bào liên hệ, nó quay tròn như bánh xe, nên gọi là Luân Xa.
Năng lượng vũ trụ vào nhiều hay ít, tùy thuộc theo sức quay của luân xa.
Với người không được mở luân xa, nó quay rất chậm. Quay nhanh bao nhiêu thì năng lượng vào bấy nhiêu.
Khi vào trong cơ thể, nó biến thành năng lượng sinh học, gọi là Nhân Điện. Năng lượng này giúp nuôi sống các tế bào, nếu không đủ năng lượng, các tế bào bị tắc nghẽn và sinh ra bệnh. Các môn võ thuật của Trung Hoa đã khai triển lực này gọi là “Chưởng Lực”. Nhân điện càng nhiều thì lực càng mạnh.
VI . TỖNG SỐ LUÂN XA (huyệt).
Con người có tất cả:
- 11 Luân xa chính.
- 4 Luân xa phụ.
a) Luân xa chính.
- 6 Luân xa thuộc mạch đốc, phần dương gồm có:
LX 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 7
- 5 Luân xa thuộc mạch nhâm, phần âm gồm có:
LX 6 – 8 – 9 – 10 – 11
b) Luân xa phụ
- 2 Luân xa phụ ở hai bàn tay gọi là huyệt “lao cung” gồm có: LX – 12 – 13
- 2 Luân xa phụ ở hai bàn chân gọi là huyệt “dũng tuyền”gồm có: LX 14-15
Các luân xa kể trên, nếu được khai mở nó sẽ quay nhanh. Và thu nhận rất nhiều năng lượng vũ trụ để điều hòa âm dương trong cơ thể.
VII. KHAI MỞ LUÂN XA.
Luân xa được khai mỡ do:
- bẫm sinh (tức là có căn từ kiếp trước).
- Tu thiền lâu ngày.
- Có thể do tai nạn được khai mở.
- Được huấn luyện bởi các huấn luyện viên được xác nhận (certified).
Nếu không được chỉ dẫn, hoặc được huấn luyện, sẽ dể bị rối loạn thần kinh.
-Với những người có căn bản về Thiền, nếu được khai mở luân xa, thì việc
Thu hút năng lượng vũ trụ rất là tiện lợi, nhanh và rất mạnh.
Có 2 loại Thiền: Động – Nhu.
Thiền động dành cho các võ sư luyện khí công, yoga. Họ dùng lối thiền này để thu nhận năng lượng rồi tạo thành sức mạnh phát công.
Thiền nhu dành cho các vị chân tu, nhà sư, cha cố, các nhà ngoại cảm, nhân điện v.v… …. . . Họ dùng năng lượng này cho sự hiểu biết xâu xa, và vào các khả năng kỳ diệu khác.
Dù động hay nhu, Thiền phải được hướng dẫn theo đúng phương pháp, qua sách vở, các thiện trí thức hay các thiền sư. Ngày xưa, chính vị đệ nhất Sư Tổ cũng phải khổ luyện rất lâu với các minh sư, nên mới thành công.
Theo khoa học, não bộ của con người có thể phát ra năm loại sóng điện, được phân biệt như: BÉTA – ALPHA – THÉTA – DELTA – GAMMA .
Sóng Não Chu Kỳ Mục Đích
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
- BÉTA 12 – 25 HZ - Trong trạng thái bình thường,
Khi làm việc hoặc hoạt động.
Khi có suy tư, buồn, bực hoặc
phiền não, thì chu kỳ sẽ tăng
quá 25 HZ làm cho cơ thể
mệt mõi v.v..
- ALPHA 8 – 12 HZ -Trạng thái ngũ
- THÉTA 4 - 8 HZ -Trạng thái thư giãn hoặc vô
- DELTA 1 - 4 HZ thức
-GAMMA < 1HZ -Vô thức hoàn toàn (thiền)
Trong vô thức hoàn toàn (vào định) tâm linh trong sạch, tâm lý thoải mái (cộng với các luân xa đã được khai mở) giúp ta thu nhận năng lượng vũ trụ rất cao (vì lúc đó, sóng não hoạt động rất nhỏ).
Tình trạng này có thể ví như 1 ly nước, khi ly không còn nước, thì ta có thể rót thêm nước, ngược lại, khi ly nước đầy rồi thì không thể rót thêm được nữa.
VIII . LỊCH SỬ CỦA NHÂN ĐIỆN
A – Đệ nhất sư tổ DASIRA NARADA (1846 – 1924
Từ ngày có con người ở trái đất này, thì năng lượng vũ trụ cũng cần có để sống còn.
Thời kỳ đức Phật, Ngài cũng có dạy rất rõ về sử dụng Luân xa và Thiền.
Vào thời kỳ mạt pháp này, chúng ta đã may mắn được Ngài Dasira Narada thị hiện xuống cõi Ta Bà này để cứu giúp chúng sinh.
-Ngài sinh năm 1846 tại Tích Lan.
-Năm 1871, đậu Tiến sĩ triết học Đông phương tại Đại học Nalanda, chính môn này đã giúp Ngài thấu hiểu luật Vô thường, nên Ngài quyết chí Tầm Sư Học Đạo.
-Vào năm 1893, khi đang ở một địa vị cao trong ngành ngoại giao ở Tích Lan, Ngài xin từ chức và tới HY MÃ LẠP SƠN để tu học.
Mười tám năm sau (1911), Ngài Đắc Đạo ! Pháp của Ngài là NHÂN ĐIỆN. Nhân điện với Xung Năng Lượng từ bàn tay để chữa bệnh, và khai mở Luân Xa cho những ai đến cầu Ngài. Pháp của Ngài thật là Đơn giản nhưng thật là Nhiệm mầu.
Vào năm 1916, Ngài đã truyền lại tất cả những kiến thức tu học cho một người đệ tử mà Ngài đặt hết niềm