Vào năm 1916, Ngài đã truyền lại tất cả những kiến thức tu học cho một người đệ tử mà Ngài đặt hết niềm tin, đó là Sa Di Narada Mahathera.
Rồi đến năm 1924, thì không ai thấy đệ nhất Sư Tổ ở đâu, nên đã phỏng đoán là Ngài viên tịch năm 1924.
B – Đệ nhị sư tổ NARADA MAHATHERA
http://phatgiaonguyenthuy.com/Trang4/tap%20van%2011/Narada.jpg
Năm 18 tuổi, Ngài được đệ nhất Sư Tổ truyền dạy pháp môn NHÂN ĐIỆN để nối tiếp sứ mạng dạy cho hậu thế.
Đệ nhị sư tổ có duyên với nước VN Ngài đã sang VN nhiều lần để hoằng pháp và có tặng cho chính phủ VN một cây Bồ Đề. Không biết Ngài có dạy cho người VN nào pháp môn này không? (Rất tiếc tôi không biết)
Ngài viên tịch 1983, hưởng thọ 85 tuổi.
C – ÔNG HUỲNH VĂN TRẠNG
Ông Huỳnh Văn Trạng là người Việt. Tôi không có duyên được học ông, nhưng được một người biết ông kể rằng: Ông không học trực tiếp từ sư tổ nào. Có lẽ vì ông có căn cơ, và có duyên với Tổ Dasira Narada từ tiền kiếp, nên đã lãnh hội Tổ qua thần giao cách cảm, dạy cho ông pháp môn Nhân điện để cứu giúp hậu thế.
Ông không dấu diếm lai lịch, ông nói với mọi người, ông vốn là một công nhân tại xưởng Bason (Hải Quân công xưởng cũ). Những khi chữa bệnh hoặc những chỉ dạy môn sinh là do Tổ truyền qua Thần giao
Với tính khiêm nhường. Ông yêu cầu các môn sinh gọi ông là Huynh 2. Trái lại; Ông gọi tất cả là Huynh. Đầu tiên, ông dạy cho một số các tu sĩ Thiên Chúa Giáo khu Vũng Tàu; Rồi dạy cho nhiều người Việt. Hiện nay, một số các môn sinh là Trưởng môn các Trung Tâm Trường Sinh Nhân Thế Điện ở trong và ngoài nước. Ông cũng được mời sang Trung quốc thuyết trình và huấn luyện về nhân điện
Ông đã mất năm 2005 tại Sài Gòn.
KẾT LUẬN
Luân xa và Nhân điện không phải là 1 thứ mê tín, dị đoan. Môn này rất bình đẳng, giúp đỡ bất cứ ai không phân biệt giai cấp, tôn giáo, hay sắc tộc v.v..
Tuy nhiên, với môn sinh nào là đạo Phật, thì cần nên biết Ngài Dasira Narada, không những là đệ nhất Sư Tổ, mà còn là một vị Đại Bồ Tát, tiếp nối hạnh nguyện của đức Phật:” Chúng sinh vô lượng, thề nguyện độ “Sử dụng nguồn năng lượng sinh học mà không vào mục đích nhân đạo, sẽ dẫn ta phạm những sai lầm như:
-Thần thánh hóa khả năng của mình
- Mê tín, dị đoan
- Thành một loại ma vương.
M.Thường
MỘT BÀI VIẾT KHÁC VỀ NHÂN ĐIỆN
A. LỊCH SỬ NHÂN ĐIỆN
Ngài Dasira Narada sinh năm 1846 tại Tích Lan.
Vào năm 1893, khi đang ở một địa vị cao trong ngành ngoại giao ở Tích Lan, Ngài xin từ chức và tới HY MÃ LẠP SƠN để tu học.
Mười tám năm sau (1911), Ngài Đắc Đạo ! Pháp của Ngài là NHÂN ĐIỆN.
Năng Lượng từ bàn tay để chữa bệnh, và khai mở Luân Xa cho những ai đến cầu Ngài. Pháp của Ngài thật là Đơn giản nhưng thật là Nhiệm mầu.
Vào năm 1916, Ngài đã truyền lại tất cả những kiến thức tu học cho một người đệ tử mà Ngài đặt hết niềm tin, đó là Sa Di Narada Mahathera. (Đệ nhị sư tổ NARADA MAHATHERA) Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo.
Rồi đến năm 1924, thì không ai thấy đệ nhất Sư Tổ ở đâu, nên đã phỏng đoán là Ngài viên tịch năm 1924.
Năm 1972, Đệ nhị sư tổ sang Việt Nam và truyền lại cho vài người. Trong đó có Ông : Huỳnh Văn Trạng. Nhân điện bắt đầu hình thành từ đây.
Đệ nhị sư tổ mất năm 1983 (02-10-1983), hưởng thọ 85 tuổi.
Nhân điện lấy ngày 24-10 hàng năm là ngày giỗ tổ của Nhân điện
B. GIỚI THIỆU VỀ TRƯỜNG SINH HỌC-NHÂN ĐIỆN
Sư tổ : Dasira Narada (1846-1924)
Trường sinh học là một môn khoa học nằm khai thác khả năng phong phú sẵn có của con người để sử dụng vào những mục đích cao đẹp đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Con người với khả năng sẵn có của mình có thể thu hút được năng lượng của vũ trụ vào cơ thể của mình để tạo thế cân bằng của cơ thể, từ đó cơ thể có thể tạo ra kháng tố đề kháng với bệnh tật. Khi cơ thể được quân bình thì cảm thấy khỏe mạnh, không bệnh tật
Trường sinh học đã chữa trị giúp cho nhiều bệnh nhân qua cơn hoạn nạn mà phần lớn đã nghĩ vô phương cứu chữa bằng các pháp trị thông thường.
Trong cơ thể con người có rất nhiều huyệt và huyệt đạo. Trong số đó có 7 đại huyệt cực kỳ quan trọng, Từ 7 đại huyệt này chúng ta có thể thu hút được những nguồn từ trường của vũ trụ vào cơ thể để tạo nguồn năng lượng và truyền đi khắp các huyệt đạo, kinh mạch và các bộ phận trong cơ thể để điều chỉnh quân bình những chỗ mất quân bình. 7 đại huyệt này trường sinh học gọi là 7 luân xa. Vị trí các luân xa nằm trên đỉnh đầu, trước trán và dọc theo xương sống đến tận giữa bộ phận cơ quan sinh dục và hậu môn. Mỗi Luân xa có tác dụng cho một số bộ phận trong cơ thể chúng ta. Nếu được khai mở, các luân xa này sẽ hoạt động để quân bình cơ thể và chuyển hóa thành năng lực cho Tinh-Khí-Thần. Tạo sức khỏe và tinh thần mạnh mẽ cho con người.
LX7 - trên đỉnh đầu, điều khiển toàn bộ hệ thần kinh
LX6 - giữa trán, còn gọi là con mắt thứ 3, điều khiển hệ tâm thần (linh hồn)
LX5 - trên xương sống, giữa 2 bả vai, điều khiển hệ hô hấp, da liễu
LX4 - trên xương sống, ngang ngực, điều khiển hệ tuần hoàn
LX3 - trên xương sống, cùng bậc với rốn, điều khiển hệ tiêu hóa, thận
LX2 - phần xương cụt, điều khiển hệ sinh sản, bàng quan
LX1 - giữa hậu môn và bộ phận sinh dục. Tiềm lực của Vũ trụ.